Trong bài trước, tôi đã trình bày số liệu cho
thấy VN ta đang thụt lùi so với Thái Lan và Mã Lai về toán và vật lí. Bài này
sẽ trình bày một số số liệu cho thấy về chất lượng, toán và vật lí của VN cũng
thấp hơn các nước láng giềng.
Một công trình khoa
học sau khi công bố, nếu có ý tưởng hay phương pháp tốt, sẽ được đồng nghiệp
trích dẫn. Câu hỏi đặt ra là số lần trích dẫn bao nhiêu là cao? Không có câu
trả lời cụ thể cho câu hỏi đó, vì còn tuỳ thuộc vào ngành khoa học. Theo phân
tích của ISI, khoảng 55% bài báo khoa học trên thế giới chưa bao giờ được trích
dẫn hay tham khảo sau 5 năm công bố! Ngay cả những bài báo được
trích dẫn, con số cũng khiêm tốn:
Chất lượng của một
công trình có thể đánh giá qua hai chỉ số liên quan đến trích dẫn: chỉ số trích
dẫn và chỉ số H. Chỉ số trích dẫn là số lần bài báo được trích dẫn sau khi công
bố. Chỉ số H phản ảnh mức độ ảnh hưởng của một nhà khoa học, nhưng sau này cũng
được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của một nhóm hay trung tâm khoa học, kể cả
đại học. Về ý nghĩa của chỉ số H có thể đọc bài trước đây của tôi.
“Mèo khen mèo dài
đuôi”
Tần số trích dẫn là
một thước đo quan trọng để đánh giá chất lượng một công trình nghiên cứu. Nhưng
trong vài năm gần đây, người ta phát hiện hiện tượng “self citation” (tức tự
trích dẫn). Nói cách khác, tác giả tự trích dẫn công trình trước của mình, và
do đó làm tăng chỉ số trích dẫn! Tự trích dẫn không phải là không có lí do, vì
có khi tác giả phải đặt nghiên cứu của mình trong bối cảnh chung và các công
trình trước của mình. Nhưng tự trích dẫn nhiều quá có thể xem là một hành vi
gian lận --malpractice -- trong khoa học.
Phân tích tần số
trích dẫn khoa học VN, tôi phát hiện một xu hướng đáng ngại: tần số tự trích
dẫn quá cao trong ngành toán. Thật vậy, trong số 1368 lần trích dẫn các công
trình toán từ VN, thì có đến 44% là tác giả tự trích dẫn (Bảng 2)! Thái
Lan cũng có tần số tự trích dẫn khá cao (35%), so với Mã Lai (25%) và Singapore
là thấp nhất (21%).
Bảng 2 dưới đây còn
“tiết lộ” văn hoá ngành rất rõ nét. Giới toán học (Đông Nam Á?) có xu hướng tự
trích dẫn cao nhất so với các đồng nghiệp ngành vật lí (với tự trích dẫn dao
động từ 14-19%). Riêng các nhà khoa học về khoa học máy tính có tần số tự trích
dẫn thấp nhất (4-9%), thấp hơn cả các đồng nghiệp kĩ thuật với tỉ lệ tự trích
dẫn khoảng 10-17%.
Bảng 2. Phần trăm tự
trích dẫn (self-citation)
Toán
|
Vật lí
|
Kĩ thuật
|
KH máy tính
|
|
Việt
|
44
|
14
|
10
|
4
|
Thái Lan
|
35
|
18
|
11
|
5
|
Mã Lai
|
25
|
19
|
17
|
8
|
Singapore
|
21
|
15
|
14
|
9
|
Chỉ số trích dẫn thấp
Nói chung, nghiên cứu
của Việt Nam
về toán, kĩ thuật và khoa học máy tính không có chất lượng cao, và do đó có tầm
ảnh hưởng thấp. Có thể điểm qua vài ngành để biết được tình hình chung:
Toán học. Tổng số
lần trích dẫn các công trình toán học của VN trong thời gian 2007-2011 là 1368
lần, tức mỗi công trình toán từ VN được trích dẫn 1.93 lần (Biểu đồ).
Con số này cao hơn Thái Lan (1.84), nhưng còn thấp hơn Mã Lai (2.23) và Singapore .
Nhưng sau khi loại bỏ tần số tự trích dẫn, thì chỉ số trích dẫn các công trình
toán học của VN chỉ còn 1.09, thấp nhất trong vùng (Bảng 3).
Vật lí. Chất lượng nghiên
cứu ngành vật lí VN qua chỉ số trích dẫn có phần tốt hơn Thái Lan và Mã Lai.
Sau khi điều chỉnh có tần số tự trích dẫn, chỉ số trích dẫn của VN là 2.73, cao
hơn Thái Lan (2.60), Mã Lai (2.50), nhưng thấp hơn nhiều so với Singapore
(4.78).
Kĩ thuật và khoa học
máy tính. Chất
lượng nghiên cứu hai ngành này của VN cũng nằm trong tình trạng chung: thấp.
Đặc biệt hai ngành này không có “văn hóa” tự trích dẫn cao như ngành toán hay
vật lí. Sau khi loại bỏ tần số tự trích dẫn, tính trung bình mỗi bài báo về kĩ
thuật của VN được trích dẫn 2.39 lần. Chỉ số này thấp nhất, khi so với Thái Lan
(2.91), Mã Lai (2.52), và Singapore
(3.86).
Bảng 3. Chỉ số trích
dẫn (2007-2011)
Toán
|
Vật lí
|
Kĩ thuật
|
KH máy tính
|
|
Tính cả tự trích
dẫn
|
||||
Việt
|
1.93
|
3.78
|
2.65
|
2.10
|
Thái Lan
|
1.84
|
3.16
|
3.28
|
2.33
|
Mã Lai
|
2.23
|
3.07
|
3.04
|
1.69
|
3.12
|
5.60
|
4.47
|
3.41
|
|
Không tính tự trích
dẫn
|
||||
Việt
|
1.09
|
2.73
|
2.39
|
2.02
|
Thái Lan
|
1.19
|
2.60
|
2.91
|
2.21
|
Mã Lai
|
1.68
|
2.50
|
2.52
|
1.56
|
2.47
|
4.78
|
3.86
|
3.11
|
Ảnh hưởng thấp
Tầm ảnh hưởng có thể
đánh giá qua chỉ số H (Bảng 4). Trong thời gian 2007-2011, Việt Nam công bố
được 15 bài nghiên cứu toán học được trích dẫn 15 lần trở lên (chỉ số H = 15).
Chỉ số này cao hơn Thái Lan (12), nhưng vẫn thấp hơn Mã Lai (16) và Singapore
(25). Tuy nhiên, nếu điều chỉnh cho tự trích dẫn thì chắc chắn chỉ số H ngành
toán học VN cũng thấp nhất so với 3 nước ASEAN vừa đề cập.
Bảng 4. Chỉ số H của
Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai và Singapore 2007-2011
Toán
|
Vật lí
|
Kĩ thuật
|
KH máy tính
|
|
Việt
|
15
|
19
|
13
|
9
|
Thái Lan
|
12
|
23
|
28
|
15
|
Mã Lai
|
16
|
22
|
36
|
14
|
25
|
53
|
51
|
31
|
Chỉ số H cũng cho
thấy tầm ảnh hưởng của các công trình vật lí, kĩ thuật và khoa học máy tính của
VN là thấp nhất trong vùng. Singapore
lúc nào cũng dẫn đầu tầm ảnh hưởng, kế đến là Mã Lai và Thái Lan.
Cố nhiên, phân tích
này chưa xem xét đến từng công trình hay cá nhân xuất sắc, nhưng thiết nghĩ
những cá nhân hay công trình outlier như thế không đại diện cho một nền
khoa học, nên rất khó diễn giải.
Nói tóm lại, qua hai
phân tích, chúng ta dễ dàng thấy 2 lĩnh vực khoa học được xem là “mạnh” của
Việt Nam là toán và vật lí, thật ra không mạnh chút nào khi so với các nước
láng giềng. Không mạnh về số lượng, càng yếu kém về chất lượng. Điều đáng quan
tâm là Mã Lai và Thái Lan đã và đang vượt qua VN về số ấn phẩm toán và lí.
Những số liệu này còn cho thấy Mã Lai đã có một bước “nhảy vọt” trong hai năm
qua, vượt qua Thái Lan, và trở thành “cường quốc” khoa học thứ 2 ở Đông Nam Á
(chỉ sau Singapore).
Những dữ liệu này hàm
ý cho biết nếu VN không có kế hoạch phát triển khoa học đồng bộ (mà chỉ tập
trung tiền vào một lĩnh vực hẹp nào đó) thì chúng ta sẽ có một nền khoa học méo
mó, mất cân đối, và chẳng giống ai. Nếu VN không tạo ra một bước nhảy vọt như
Mã Lai (hay Thái Lan trong thập niên trước đây) thì chúng ta sẽ mãi mãi là kẻ
đi sau hai nước láng giềng. Không một người Việt Nam nào – trong hay ngoài nước --
muốn thấy một viễn ảnh như thế.
Nguyễn
Văn Tuấn
(nguyenvantuan.net)
Xem thêm